Cách nuôi ba ba, rùa trong nhà

02:09 |

Ba Ba với Rùa là những con vật rất nhạy cảm với thời tiết, đặc biệt là nhiệt độ. Chính vì vậy Trung Quốc và Thái Lan họ đã áp dụng mô hình nuôi Rùa và Ba Ba trong nhà. Lợi ích của việc nuôi trong nhà là dễ quản lý,tránh thất thoát, kiểm soát được nhiệt độ và nguồn nước,tránh được rủi do về dịch bệnh rất cao. Nếu diện tích nhà rộng ta xây bể xi măng,hoặc làm bể tầng bằng inox.

I. Nhân giống rùa

Bể nuôi rùa bố mẹ
Chọn nơi có điều kiện sinh thái gần giống với tự nhiên, ao hướng Bắc nam, tránh gió Bắc, hướng về phía mặt trời, đất tơi mềm, nguồn nước dồi dào, cấp thoát nước thuận tiện, yên tĩnh, không bị nhiễm bẩn.
Diện tích ao nuôi: 20-100m2. Ao sâu: 1,5m, nước sâu 1,2m.
Xung quanh ao cách mép nước 1-2m có tường rào cao 0,5 m, tường trát nhẵn, trên tường có gờ nhô ra về phía ao độ 10 cm, chân tường sâu 60-70cm. Giữa ao cần có mô đất 3-5m2, độ dốc 25o, trên mô đất trống các loại cây làm dàn che mát, làm nơi rùa nghỉ và đẻ trứng.
Đáy ao nên bừa kĩ, lớp đất cát dưới đáy ao dày 20-30cm để rùa trú đông. Bờ ao có độ dốc nhất định cho một lớp đất cát pha để rùa đào hố đẻ trứng. Ngoài ra trồng ít cây bóng mát hoặc cho cây leo tạo thành nơi yên tĩnh.
Bể bơi rùa mới nở
Thường dùng gạch và xi măng xây trong nhà có thành trơn nhẵn, bể hình chữ nhật.



Diện tích mỗi bể 2-3 m2, cao 0,8m, nước sâu 0,2-0,3m. Đáy bể có độ dốc nhất định, một đầu bể có nước, đầu kia không ngập nước để rùa bò ra ăn uống nghỉ ngơi, nhà ấp cần thông thoáng, mát, mùa đông cần che chắn kín gió, trên bể che đậy bằng tấm nhựa.

Sự giao phối
Hàng năm tháng 8-9 là mùa giao phối và đẻ trứng, thường giao phối vào đêm sáng trời. Khi động hớn nổi lên mặt nước khuấy mạnh bò lên cạn rất nhanh. Con đực chủ động theo con cái hoặc quay tròn quanh con cái, con cái lại không cho bò đi… tiến hành giao phối. Đặc điểm cảu rùa là giao phối năm này sang năm sau tinh trùng vẫn có khả năng thụ tinh, trong điều kiện nuôi tỉ lệ là 1 đực 2 cái, hoặc 1 đực 3 cái.
Đẻ trứng
Mùa đẻ tháng 4-9, tập trung vào trung tuần tháng 6 đến thượng tuần tháng 7. Khi nhiệt độ không khí trên 20oC kéo dài 5-10 ngày con cái bắt đầu đẻ trứng. Đa số một năm một lứa, mỗi lứa khoảng 2 quả trứng, có một số con một năm đẻ hai lứa, cá biệt ba lứa.
Trước lúc đẻ bò khắp nơi tìm chỗ đất xốp, sườn dốc, kín để đào ổ dưới gốc cây hay bụi cỏ rậm.
Nơi đào ổ có hàm lượng nước 5-20%, trước khi đào thành hố, dùng chân sau và đuôi hất đất sang hai bên. Khoảng 2-3 giờ được một hố sâu 5-15cm, đường kính khoảng 8-12cm. Trời khô, hàm lượng nước trong đất 5% thì rùa đào vào buổi sáng chọn chỗ đất ẩm ướt, có con dùng nước tiểu của nó tưới lên cho đất mềm dễ đào. Nếu hàm lượng nước trên 30% khó đào.
Sau khi đào xong hố nó nghỉ một lát rồi đẻ trứng. Dùng chân sau xếp trứng đúng vào hố, trứng vừa đẻ vỏ mềm có tính đàn hổi, sau đó vỏ trứng cứng dần. Thời gian giữa trứng thứ nhất đến trứng thứ hai là 5-10 phút.
Trứng hình ô van cỡ 27-50mm, cỡ to 18,3g, nhỏ 12,5g, trung bình 15,25g, tỉ lệ thụ tinh 70-90%.

Ấp nở nhân tạo

Dụng cụ ấp gồm thùng ấp, lợi dụng nhà ấp gà, lò ấp trứng vịt để ấp. Tùy số lượng trứng và yếu tố kĩ thuật. Trứng vừa đẻ ra có màu trong chưa phân biệt được có thụ tinh hay không. Sau khi đẻ 48-72 giờ có thể phân biệt. Vỏ trứng thụ tinh sáng có vòng tròn màu trắng sữa. Đem trứng thụ tinh xếp vào thùng đặt phần có vòng tròn trắng lên trên, trứng cách trứng 3-5 cm, trên phủ cát dày 3-4cm, trên mỗi thùng có lỗ nhỏ để khi trứng nở thành rùa con có chỗ chui lên trên thúng ấp phủ lớp bông ướt, dùng nước phun ẩm. Độ ẩm không khí 70-85%, nhiệt độ 25-34oC là tốt nhất. Trong thùng cần cắm nhiệt kế và ẩm kế cho tiện theo dõi, tỉ lệ nở 75-80%.
Nếu thùng ấp dùng đất thít thì lớp đất dày 20cm, vùi trứng sâu 10-13cm, khi trứng sắp nở thì bớt lớp đất trên mỏng đi một ít, lượng nước trong đất là 12-16%, cách 3-5 ngày phun nước một lần. Nhiệt độ không khí 22-34oC, độ ẩm 75-80%, tỉ lệ nở đạt 94%.
Quản lí chăm sóc
Nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thời gian nở. Trong tự nhiên thời gian nở 80-90 ngày có khi đến 100 ngày. Ấp nhân tạo khoảng 70 ngày. Khi nhiệt độ dưới 18oC và trên 37oC thì phôi không phát triển và chết.
Đất dùng để ấp vừa đảm bảo giữ được nước vừa thông thoáng không khí, không sinh nấm mốc. Dùng cát vàng hay cát đen để ấp thì biên độ giao động nhiệt độ tương đối lớn, khi bị ánh nắng mặt trời chiều vào nhiệt độ lên cao, hơi nước bốc nhanh làm nhiệt độ ấp cũng tăng nhanh, phôi dễ chết, nếu phun thêm nước để duy trì độ ẩm lại dễ xuất hiện tích nước tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển. Thực tiễn dùng cát vàng, cát đen không tốt bằng đất thịt. dùng đất sâu cách mặt đất 60cm không có mùn bã hữu cơ, đất nhỏ cỡ 1cm, phơi thật khô để diệt khuẩn, phun nước để có độ ẩm 12-16% như vậy đất thông thoáng, giữ ẩm, giữ nhiệt tốt.
Quá trình phát triển của phôi, càng về giai đoạn cuối cùng càng nhạy cảm với điều kiện môi trường, trao đổi khí càng mạnh nên dễ chết. Trứng đã ấp 20 ngày không nên di động vì trứng rùa lòng trắng rất ít, nếu di động trứng rất dễ bị thương và phôi chết.
Khi ấp trứng rùa là dịp tốt để rắn, chuột, kiến mò đến ăn hại nên phải dọn sạch xung quanh không để cho chúng có nơi ẩn náu. Nếu ấp trong nhà phải có thuốc diệt chuột, kiến, rùa, lúa rùa con phá vỏ chui ra kiến thường đến ngay để đốt, cần làm ngay các rãnh nước ngăn kiến, phá các ổ trứng kiến nếu có.
Có thể làm động tách kích thích để trứng nở tập trung như: Khi thấy vài trứng đã nở thì lấy hết trứng đang ấp trong đất ra cho vào nước có nhiệt độ ấp hoặc để trên đât sau 10-12 phút rùa con sẽ dùng mồm phá vỡ vỏ trứng chui ra, nếu sau 25 phút không thấy trứng nở thì lại đưa vào thùng ấp như cũ.

Rùa mới nở

Thân còn yếu, chưa bắt mồi được, đưa rùa con vào khay gỗ cho rùa tự vận động khoảng 4-5 giờ, dùng nước muối có nồng độ 10% hoặc thuốc tím 1g/1m3 tắm cho rùa. Sau 2 ngày cho rùa ăn lòng đỏ trứng gà luộc chín, sau 1 tuần lễ đưa ra bể nuôi.

Nuôi rùa con (sau 1 tuần lễ).

Lúc này cơ thể nặng 10g, thả 50-100con/m2. Trước khi nuôi dùng vôi dọn sạch bể, để khô rồi mới lấy nước vào, nước sâu 0,2-0,3m. Khả năng tiêu hóa của rùa con rất yếu nên thức ăn phải đạt yêu cầu: tinh, nhỏ, mềm, , giá trị dinh dưỡng cao, thường cho ăn cá, tôm, thịt bò, thịt nạc, giun xay nhuyễn, tốt nhất trộn với lòng đỏ trứng thành hỗn hợp. Không nên cho ăn nhiều mỡ để phòng bệnh viêm ruột. Lượng thức ăn bằng 3-5% trọng lượng thân. Ngày cho ăn 2 lần; sáng và chiều tối. Lượng cho ăn phải điều chỉnh theo thời tiết, việc quản lí nước phải thật nghiêm khắc, vì rủa còn rất nhạy cảm với nhiệt độ nước, nhiệt độ thích hợp 25-30oC, lúc mới nỏ cũng là tháng có nhiệt độ cao, phải tăng thêm nước hoặc giảm mật độ nuôi. Khi phát hiện bệnh phải xử lí kịp thời.

II. Kĩ thuật nuôi rùa thịt

Bể nuôi rùa giống

Cũng giống như nuôi rùa mới nở, nhưng nước sâu hon 0,3-0,4m, tường bể có gờ nhô về phía trong để phòng rùa bò đi.



Ao(bể) nuôi rùa thịt

Có thể xây trong nhà hoặc ngoài trời. Diện tích 3-20m2, hình chữ nật. Ao sâu 0,8-1,5m, từ mép nước đến bờ tường xây gạch có độ dốc 25oC để rùa bò lên nghỉ ngơi, ăn uống… Nếu là bể ngoài trời thì nên có dàn che, diện tích khoảng một nửa diện tích ao. Xung quanh có tường rào để rùa không trốn đi, lúc cần cũng có thể dùng bể để nuôi rùa mới nở, rùa giống.

Sau 1 tháng đạt 15-20g chuyển sang ao nuôi giống, mật độ 50 con/m2.


Sau 2 tháng có thể nặng 50g chuyển sang nuôi rùa thịt. Mật độ 30con/m2. Nếu ao nuôi có nước chảy, mật độ có thể 45con/m2.

Mỗi khi san ao phải phân loại rùa riêng để phòng chúng chèn ép, thậm chí ăn thịt lẫn nhau.

Thức ăn chủ yếu của rùa là động vật giàu đạm. Tỷ lệ thức ăn động vật và thực vật là 3:1. Có thể: động vật 80%, thực vật 16-18%, men tiêu hóa, 0,2%, vitamin 0,4%, nguyên tố vi lượng khác 2%. Mỗi ngày cho ăn 1-2 lần, mỗi lần số lượng thức ăn dọn sạch sàn ăn. Có điều chỉnh lượng thức ăn theo thời tiết để tránh lãng phí ảnh hưởng đến chất nước.

Rùa thích sống ỏ vùng nước sạch, nếu không có nước chảy phải thường xuyên thay nước. Ao giống nên đảm bảo nước xanh nhạt, độ trong 30cm. Nước trong nhìn thấy đáy làm cho rùa không an tâm sinh sống. Nước quá béo, màu xanh lục thẫm hay xanh nâu sinh vật phù du quá nhiều làm cho rùa không thấy đường tìm mối sẽ ảnh hưởng tới sinh trưởng và phát dục, cần phải thay nước và thêm nước mới vào.

Về mùa đông rùa có thể tự đào hang trú đông, đáy ao nên có lớp bùn cát dày 20-30cm.

Miệng cống ao có lưới bịt kín, nếu bể ở trong nhà có thể sưởi ấm bằng cách gia nhiệt. Ao trú đông có thể thả mật độ dày gấp 3-4 lần ao bình thương. Trước khi trú đông cho rùa ăn thức ăn giàu dinh dưỡng để chúng tích lũy mỡ dùng trong mùa đông.

Sử dụng bể inox sẽ tiết kiệm được diện tích, dễ dàng hơn trong cách quản lý và chăm sóc rùa.
xây dụng thùng inox có diện tích 1,2m x 2m, chiều cao 30 - 40cm mỗi thùng có ống khóa thoát nước để dễ dàng thay nước thường xuyên và cửa nhỏ để tiện cho rùa ăn và  xếp chồng các thùng lên nhau
.




III. Phòng và trị bệnh cho rùa

Trong quá trình nuôi phải thực hiện nghiêm ngặt các khâu xây ao, tẩy ao nuôi, chọn giống, cho đẻ, quản lí chăm sóc. Đặc biệt là phòng trị một số bệnh sau:

1. Bệnh sưng cổ

Là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn gây ra.

Triệu chứng:

Cổ sưng to, bụng có các nốt mụn đỏ, mắt trắng đục khi bị nặng chải máu mũi, hai mắt sưng đỏ có khi bị mù.
Cách phòng trị:
- Đảm bảo nước ao nuôi sạch sẽ.
- Trộn thuốc Tetracycline hay Chlorocid hoặc Sulfamid.. vào thức ăn, cho ăn trong 3 ngày liền, lượng thuốc ngày đầu 0,2g/kg thức ăn, các ngày sau giảm đi một nửa.
2. Bệnh thủy mi
Do nấm thủy mi gây ra thường vào mùa xuân, nhiệt độ lạnh (18-20oC).

Triệu chứng:

Trên vùng da bị thương có các bông nấm trắng thường kí sinh ở cổ, chân, mai, bụng. Lúc mới phát bệnh rùa thường kém ăn, lờ đờ. Bệnh nặng lưng mềm và mỏng, hoạt động yếu ớt rồi chết.

Cách phòng trị:

Cho rùa bò lên cạn phơi nắng để diệt nấm, đảm bảo nước ao sạch sẽ. Ngâm rùa trong dung dịch xanh malachit 1,5-2g/m3 nước.

3. Bệnh loét da

Bệnh do nhiễm trùng vết thương gây ra, chất độc do các vi khuẩn tiết ra làm loét da chân, cổ, nách.. khi nặng còn lòi cả xương.
Cách phòng trị:
- Đảm bảo nước ao luôn sạch sẽ.
- Cách li con bệnh với con khỏe.
- Ngâm con bệnh vào dung dịch thuốc kháng sinh 10ppm Sulfamid trong 48 giờ.
- Hạn chế rùa cắn nhau dễ bị thương.

4. Bệnh nấm lông (Bệnh đốm trắng)

Là bệnh truyền nhiễm do nấm gây ra. Bốn chân và viền mép có đốm, lúc đầu xuất hiện ở viền áo sau đó lan rộng thành đóm trắng làm cho da bị thối rữa, rùa kém ăn, hoạt động không bình thường. Nếu bệnh phát sinh ở hầu làm rùa khó thở mà chết.
Bệnh xảy ra thường vào tháng 5- đến tháng 7.

Cách chữa:

Khi có bệnh dùng vôi tẩy ao, đảm bảo nước luôn sạch. Rùa bị bệnh dùng thuốc mỡ xanh methylen hay thuốc mỡ Tetracyline 1% bôi vào chỗ có nấm. Dùng Refamicine cộng với Chlorocide mỡ bôi lên vết loét, bôi trực tiếp vào vết loét khi bóp kén ra.

5. Bệnh lở cổ

Là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn nấm gây ra, cho bị benẹh sinh vật bám như miếng bông. Cổ hoạt động khó khăn, kém ăn, có con không cử động, nếu không chữa, sau vài ngày là chết.

Cách chữa:

- Dùng nước muối 5% tắm cho rùa 1 giờ, hoặc dùng 5 phần vạn xanh methylen tắm trong 15 phút, hoặc dùng các loại thuốc mỡ Penicilin bôi vào chổ bệnh.

6. Bệnh cổ đỏ

Là loại bệnh truyền nhiễm, tác nhân gây bệnh có thẻ là vi rút, cũng có thể là vi khuẩn đơn bào.

Bệnh hay phát sinh vào mùa mưa phùn. Con bị bệnh bụng có đốm đỏ, hầu và cổ sưng, đầu thò ra nhưng không rụt lại được, hoạt động chậm chạp, kém ăn. Bệnh nặng thì mồm và mũi chảy máu, ruột viêm tấy, toàn thân sưng đỏ, mắt đục trắng, bị mù, không bao lâu thì chết.

Cách chữa:


Khi phát hiện bệnh lập tức cách li con bệnh, dùng vôi tẩy ao và thay nước mới. Dùng các loại kháng sinh Biomyxine, Tetracyline, Penniciliene. Mỗi kilogam trọng lượng tiêm 15 vạn đơn vị (tiêm vào chân). Nếu thấy không giảm thì dùng tiếp một liều nữa hoặc thay kháng sinh khác. Hoặc trộn thuốc vào thức ăn. Mỗi kilôgam rùa cho ăn 0,2g Sulfamid, qua ngày thứ 2 giảm một nửa, cho ăn liên tục 6 ngày.

Read more…

Kỹ thuật nuôi ba ba

23:07 |

Kỹ thuật nuôi ba ba lớn nhanh


Hiện nay nuôi ba ba đang được xem là hướng làm giàu của nhiều bà con nông dân. Hải Dương online giới thiệu kỹ thuật nuôi ba ba lớn nhanh để bà con tham khảo.




Chuẩn bị ao nuôi

Môi trường đất, nước có vị trí quyết định quan trọng đến tốc độ lớn, bệnh tật của ba ba nuôi. Đất, nước bạc màu, hàm lượng N, P, K trong đất, nước thấp rất thích hợp với việc nuôi ba ba. Vì vậy, các tỉnh miền núi, trung du nuôi ba ba tốt hơn các tỉnh đồng bằng.

Muốn nuôi ba ba có kết quả tốt, điều quan trọng đầu tiên là phải xây dựng được ao nuôi phù hợp với điều kiện sống của ba ba và quản lý được đàn ba ba nuôi.

Xây dựng ao nuôi ba ba cần phải đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật chủ yếu sau:

- Nên xây dựng ao nuôi ở nơi yên tĩnh, kín đáo, không bị cớm rợp, dễ thoát nước, không bị úng ngập, có nguồn nước cấp độc lập để bảo đảm cấp nước sạch.

- Diện tích ao rộng hẹp vừa phải. Ao nuôi ba ba bố mẹ từ 100-200m2/ao, lớn nhất không nên quá 400m2. Ao nuôi ba ba thịt từ 100-200m2/ao, lớn nhất không quá 1.000m2.

- Độ sâu thích hợp (tính từ đáy ao lên đỉnh bờ): Ao nuôi ba ba bố mẹ từ 1,5-2m, có mức nước chứa thường xuyên từ 1,2-1,5m, thời gian nắng nóng và mùa rét cho nước sâu thêm 20-30cm. Ao nuôi ba ba thịt từ 1,5-2m, có mức nước chứa thường xuyên 1-1,2m. Thời gian nắng nóng và mùa rét cho nước sâu thêm 20-30cm.
- Có chỗ cho ba ba nghỉ ngơi dưới nước và trên bờ; có chỗ cố định cho ba ba ăn để tiện theo dõi. Xung quanh phải xây bờ cạo để tránh ba ba vượt ra ngoài.


Thời vụ nuôi

Thời vụ nuôi bắt đầu vào cuối tháng 3 đến đầu tháng 12. Từ giữa tháng 12 đến hết tháng 2 thời tiết lạnh nhiệt độ nước dưới 18°C, có khi dưới 15°C ba ba không ăn và không lớn. Các tháng ba ba sinh trưởng nhanh nhất là từ tháng 5 đến tháng 10.

Ba ba hoa nuôi ở các tỉnh miền Trung và phía Nam: hầu như ăn mồi quanh năm, sinh trưởng liên tục và đẻ quanh năm, do khí hậu ấm áp quanh năm không có mùa đông lạnh như các tỉnh phía Bắc. Trong vùng này, nhiệt độ nước các ao nuôi ba ba trong năm dao động chủ yếu trong phạm vi từ 24-32°C, ít khi dưới 22°C hoặc trên 33°C. Những nơi có điều kiện cấp nước tốt có thể khống chế được nhiệt độ nước trong phạm vi thích hợp nhất từ 26-30°C.

Thức ăn

Ba ba ăn động vật, bắt mồi tĩnh, không phải động vật đuổi bắt mồi. Các loại cá, tôm băm thái cho ăn phải được rửa sạch nhớt, máu mới thả xuống bãi hoặc giàn cho ăn, tránh làm thối, nhiễm bẩn nước trong ao nuôi.

Tập trung cho ăn tích cực đối với ba ba bố mẹ từ tháng 6,7,8,9 cho ba ba béo, hình thành trứng, qua đông vỗ tiếp ba ba đẻ vào tháng 4, chất lượng sẽ tốt, tỷ lệ nở cao. Loại thức ăn hiện nay tốt nhất vẫn là cá biển tươi băm thái cho ăn, các loại cá tạp chất lượng kém hơn. Ngoài ra phải bổ sung trùn quế, ốc. Riêng ba ba giống, thức ăn tốt nhất là trùn, cá mè luộc, cho ăn ngày 2 lần.


Kỹ thuật sản xuất ba ba giống

Sản xuất ba ba giống gồm 3 khâu kỹ thuật chủ yếu: nuôi vỗ ba ba bố mẹ sinh sản, thu trứng và ấp trứng, ương nuôi ba ba giống.


Nuôi vỗ ba ba bố mẹ. Chỉ tiêu chính đánh giá trình độ kỹ thuật của khâu này là năng suất đẻ trứng và tỷ lệ trứng thụ tinh cao. Muốn đạt các chỉ tiêu cao cần thực hiện tốt các vấn đề sau:

- Xây dựng ao nuôi phù hợp với các yêu cầu sinh sản của ba ba.

- Làm tốt công tác chuẩn bị ao nuôi. Ao, bể mới xây cần ngâm rữa nhiều lần, thứ nước đảm bảo độ pH thích hợp (từ 7 -8) mới thả ba ba vào. Ao nuôi sau một vụ, trước khi nuôi vụ mới cần tẩy dọn sạch để diệt mầm bệnh. Khi thấy cần thiết, phải thay lớp bùn cát đã bị thối bẩn nặng.
- Nuôi đúng thời vụ. Các tỉnh phía Bắc phải bắt đầu nuôi vỗ từ tháng 8, tháng 9 để đến khi bắt đầu rét, ba ba bố mẹ đã béo khoẻ, sang Xuân chuyển hoá tuyến sinh dục nhanh, đẻ sớm. Sau khi đẻ xong lứa thứ nhất, tiếp tục nuôi vỗ để ba ba đẻ các lứa thứ 2,3,4…

Các tỉnh phía Nam có thể nuôi vỗ cho đẻ quanh năm, nhưng nên nuôi vỗ sớm để ba ba đẻ tập trung các tháng từ tháng 1 đến tháng 2.

- Chọn ba ba bố mẹ có tác tiêu chuẩn tốt về hình dạng, sức khỏe và qui cỡ, cỡ chọn nuôi nên 1kg trở lên với ba ba hoa, 2 kg trở lên với ba ba gai. Số lượng nuôi 1 ao cần thả đủ 1 lần, không thả rải rác.

- Phối ghép tỷ lệ đực/ cái thích hợp. Hiện nay nhiều người cho rằng tỷ lệ thích hợp nhất là 1/2,5-3 (một con đực ghép với 2,5 đến 3 con cái).
Read more…